Đăng kí nhận thông báo
Thống kê
Đang Online: 7
Truy cập hôm nay: 30365
Tổng số truy cập: 1910846
 
Yahoo Messenger

donhuminhkhoa
 
Đặt quảng cáo

 

XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH

2012-06-13 06:36:35

Cách ngày nay trên 2.500 năm, người Việt cổ đã sử dụng phổ biến hình thức xử lý xác người mới qua đời là thổ táng (đưa người chết vào quan tài gỗ và chôn trong đất). Tiêu biểu cho táng thức này là chiếc quan tài hình thuyền được tìm thấy ở khu mộ cổ Việt Khê (Hải Phòng) vào năm 1961.

Chiếc quan tài này được làm từ thân cây khoét rỗng, trong quan tài ngoài dấu vết xương cốt còn có hơn 100 hiện vật tùy táng bằng đồng. Có lẽ quan niệm của người xưa cho rằng con thuyền quan tài sẽ chở người quá cố sang “thế giới bên kia”, còn cái chết chỉ là giấc ngủ dài mà trong đó họ có thể sử dụng những vật dụng chôn theo. Thổ táng như vậy đã trở thành táng thức truyền thống của người Việt Nam và tồn tại cho đến nay với các loại vật liệu xây dựng khác nhau theo từng thời kỳ, mà hợp chất vữa ô dước là loại vật liệu được sử dụng phổ biến từ thế kỷ XV.

Phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, TP.HCM đã tiến hành chỉnh trang phố thị cho phù hợp với điều kiện mới và số lượng dân số ngày càng tăng, vì vậy các khu nghĩa trang và một số ngôi mộ riêng lẻ cần phải được di dời cho hợp vệ sinh và mỹ quan đô thị. Xóm Cải là một trong những trường hợp ấy.

Vào những ngày cuối tháng giêng năm 1994, khi giải tỏa mặt bằng xóm Cải phường 8, quận 5, TP.HCM rộng gần 5 ha nằm trong khu vực các đường Hùng Vương, Ngô Quyền, Phước Hưng và Nguyễn Trãi để xây dựng khu chung cư mới, trong quá trình xử lý các ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ đã phát hiện một ngôi mộ hợp chất song táng có lại một quan tài trong quách gỗ còn nguyên vẹn xác một người phụ nữ khoảng 60 tuổi cao 1,52m bó nhiều lớp vải nằm trong dung dịch màu nâu đỏ dung tích khoảng 0,87m3.

Ngôi mộ chôn xác ướp nói trên quy mô khá lớn: có cổng, có vòng thành bao quanh, có sân thờ và gò mộ kiểu một căn nhà, toàn bộ đều được xây bằng hỗn hợp vật liệu như vôi sống, mật đường mía, nước nhớt dây tơ hồng, một ít than hoạt tính, cát… tạo thành hợp chất khá rắn chắc:

 - Vòng thành mộ hình chữ nhật có kích thước dài 10m, ngang 6m, cao 1,2m, dày 0,8m.

- Một cổng tam quan trang trí mặt tròn, có búp sen trên đầu cột. Cổng cao 1,4m, rộng 1m, dày 0,8m được xây dựng có mái vòm cong lót giả ngói ống trang trí hình rồng.

- Sân thờ là khoảng đất rộng 6m ngang 4m giữa có bệ thờ chân quỳ dài 1,2m, rộng 0,8m, cao 0,6m.

- Gò mộ là một khối hợp chất lớn dài 3,6m, rộng 3m, cao 3,2m bao gồm 2 phần: phần trước có bia mộ nằm chìm trong khối hợp chất và phần sau có trang trí hoa văn như cổng, mỗi bên hông đều vẽ một mặt tròn lớn. Chữ trên bia bị mòn còn đọc được 3 chữ Hán: “Kỷ Tị niên ?”. Khi phá gò mộ thành bình địa mới thấy 2 huyệt mộ:

* Huyệt mộ nam dài 2,3m, rộng 0,8m, sâu 1,56m, từ miệng huyệt xuống đáy được xây lớp hợp chất, có một lớp cát mỏng phủ lên quách gỗ… Quách và quan tài còn nguyên lớp sơn màu đen, bên trong quan tài còn lại ít xương và một số hiện vật như: 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt giấy, lược, ống và cây ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt chạm dây lá, nút áo mạ vàng, bút lông… Điều này cho thấy người nam là một văn nhân.

* Huyệt mộ nữ có kích thước nhỏ hơn một chút. Quách và quan tài nguyên vẹn. Mở quách rồi mở tấm ván thiên, trong quan tài được sắp xếp như sau:

 + Trên cùng là 2 chiếc chiếu cói trải rộng che phủ diện tích mặt áo quan.

+ Kế đến là một lớp giấy bản, từng tờ cuộn dày 10cm trải đều diện tích mặt quan tài.

+ Tiếp theo là một tấm lá triệu (lá phướn?) bằng lụa viết nhiều chữ Hán song chữ đã bị dung dịch thấm nhòe chỉ đọc được 4 chữ: “…hoàng gia cung liệm…”

+ Thứ đến là một lớp vải bó tròn thắt 9 nút cũng trải đều trên diện tích mặt áo quan. Có lẽ con số 9 ở đây tượng trưng cho người nữ theo câu: “nam thất nữ cửu” như phần dưới đây chúng ta lại gặp.

+ Phần chính yếu là một bọc dài lớn cuốn bằng lụa và gấm, có 9 dây vải thắt 9 nút. Kiểm tra gói bọc xác bà thấy hai bàn chân đi hài bằng vải bố thêu kim tuyến và một đôi hài khác để bên: mở bọc ra, các nhà khảo cổ thấy trọn vẹn xác bà tóc còn đen nhưng nhãn cầu và sụn mũi đã bị hủy hoại, da còn mềm có màu tái xám. Bà mặc khoảng hàng chục lớp vừa áo vừa quần may theo kiểu thụng bằng lụa và gấm, áo rộng cài khuy chéo, khuy bằng mã não và kim loại mạ vàng. Bà đeo trên cổ 1 xâu chuỗi hạt bồ đề, 1 túi nhỏ bằng gấm bên trong có phong bì đựng 3 tờ giấy viết chữ Hán: 1 tờ Lòng phái quy y, 1 tờ chép Bài chú vãng sanh tịnh độ và 1 tờ ghi tên 5 vị Phật. Mỗi tay bà đeo 1 vòng bằng vàng.

+ Dưới bọc xác bà là một lớp nhựa thông dày khoảng 10cm.

+ Dưới cùng là một tấm gỗ đục 7 lỗ tròn theo hình Thất tinh cách ván địa vài cm tạo ra áo quan kiểu hai đáy.

Toàn bộ đều bị thấm dung dịch ướp.

 Khi đem xác đi để thẩm định, khớp cổ và các chi của xác bà còn mềm, nhưng chẳng bao lâu sau xác cứng lại và màu da đen dần, hiện nay xác đã teo khô và có màu đen.

Kết quả thẩm định y khoa cho biết: các cơ bắp đã teo đét, phủ tạng đã bị hủy hoại chỉ còn lại các mô liên kết.

 Theo nghiên cứu bước đầu, căn cứ vào tờ lòng phái quy y và những chữ Hán còn lại đã giới thiệu trên có thể tạm xác định:

Đây là một phụ nữ người Kinh (Việt) thuộc tầng lớp trên tên là Trần Thị Hiệu, pháp danh là Minh Trường. Qua các dấu ấn đóng trên tờ lòng phái quy y có thể thấy các đời tổ thứ 31 đến 37 của dòng đạo Bổn Nguyên, tông Lâm Tế. Vị sư truyền giới cho bà là thiền sư Chánh Niệm, húy Tiên Liễu thuộc đời thứ 37. Có thể bà thuộc Hoàng gia triều Nguyễn, là dâu hoặc là bên ngoại của các chúa hoặc vua Nguyễn, năm mất của bà là năm Kỷ Tỵ?. Các nhà khoa học cho rằng đó là năm 1869 [40, tr.7] hoặc năm 1809 (Võ Xuân Trang) [73, tr.4].

Qua phát hiện khảo cổ về ngôi mộ hợp chất có thể thấy đây là xác được ướp nhằm kéo dài thời gian để tổ chức ma chay. Điều này chỉ có ở tầng lớp trên hay những gia tộc giàu có Việt Nam mới có khả năng thực hiện. Việc xác bà còn tồn tại tới nay là một trường hợp hãn hữu cần có sự nghiên cứu liên ngành để có thể hiểu rõ hơn, giúp ích cho các ngành khoa học liên quan. Xác bà và những di vật tìm thấy trong ngôi mộ hợp chất này đã trở thành một phần di sản vật chất và tinh thần quý giá của TP.HCM, góp phần làm nên bộ mặt Sài Gòn xưa vào giai đoạn mà người Việt đã trở thành chủ thể chính thức của vùng đất Nam bộ ruột thịt.

XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn
XÁC ƯỚP XÓM CẢI – TP. HỒ CHÍ MINH
Xem Ảnh lớn