VÀI NÉT VỀ ĐỀN THỜ HÙNG VƯƠNG - Phạm Hữu Công
Đền được xây dựng năm 1926, lúc đầu gọi là Đền Kỷ Niệm – nơi tưởng niệm những người Việt Nam đi lính cho Pháp tử trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918). Năm 1954, Đền trở thành nơi thờ Hùng Vương, Khổng Tử, Trần Hưng Đạo, Lê Văn Duyệt… Từ năm 1975 đến nay, Đền mang tên Đền thờ Hùng Vương.
Đền tọa lạc trên một khu đất khoảng 1.600 m2, nhìn về hướng Tây – Bắc. Kiến trúc Đền theo bình đồ vuông, nền cao 3,27m, có ba tầng tượng trưng Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân): tầng nền 1 cạnh rộng 26,66m; nền 2 cạnh rộng 19,44m; nền 3 cạnh rộng 13,68m, nhỏ dần khi lên cao tạo thế vững chắc của khối nhà. Mặt chính của Đền đối diện với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Tp.HCM qua trục đường Lê Duẩn tạo thành một cụm kiến trúc đường bệ, hài hòa kiểu phương Đông. Đền có ba lối vào rộng 11m trước mặt và hai bên. Lối vào hai bên bố trí một vườn hoa nhỏ (5,4mx2,8m) ở giữa nghiêng theo các bậc thềm nhằm phân biệt với lối vào cửa giữa thông thoáng. Mỗi lối vào có tam cấp: cấp 1 cao 2,15m gồm 14 bậc thềm, hai bên có đôi rồng chân bốn móng theo mô típ rồng thời Nguyễn dẫn lên; cấp 2 cao 0,7m gồm 6 bậc; cấp 3 cao 0,42m gồm 3 bậc. Mỗi cấp đều có chiếu nghỉ, ở chiếu nghỉ cấp 1 có lối đi vòng quanh Đền, rộng 3,61m, cấp 2 lối đi rộng 2,15m. Biên các lối đi được xây tường bao cao 1m, dày 0,3m, trang trí gạch thông gió ô vuông chồng nhau và ô tròn bông mai, giả như thành, quách làm tôn vẻ uy nghi của nơi thờ tự.
Toàn bộ tòa nhà cao 9m được chịu lực bởi 12 cột gỗ sao và hệ thống rường, kèo, cột gạch, tường gạch chắc chắn, mái lợp ngói âm – dương. Do bình đồ vuông nên Đền có kiến trúc bốn cạnh tương tự nhau nhưng các chức năng cửa chính, cửa hai bên và hậu cung được phân chia rõ. Ngoại thất Đền gồm hai phần kiến trúc phần dưới gạch, phần trên gỗ, vươn lên cao với hai tầng mái kiểu trùng thiềm điệp ốc, đảm bảo việc chống mưa tạt và quanh năm sáng sủa thoáng mát do các khe lá gió tầng trên vừa lấy ánh sáng vừa lấy gió trời. Đặc biệt, từ bậc cửa lên tầng mái 1 ở độ cao… m có thêm một khung mái nhô ra che chiếu nghỉ được bốn cột xi măng chống đỡ tạo thành tiền sảnh ở ba mặt: trước và hai bên, còn mặt sau này được xây bít, biến thành hậu cung. Hai đầu đao của khung mái này trang trí hồi văn hóa phụng: có tất cả tám con phụng đang trong tư thế ngẩng đầu. Giữa khung mái tiền sảnh và khung mái 1 là một đoạn tường gạch trang trí một băng các ô gạch thông gió hình thoi cách điệu và gạch men xanh Đồng Nai bao bốn góc. Khung mái 1 nhô ra khoảng…..m che mưa nắng cho đoạn tường này. Trên bốn đầu đao của khung mái 1 là họa tiết dây lá hóa phụng chạy suốt chiều dài uốn lượn trong tư thế đầu quay ngược vào Đền. Giữa tầng mái 1 và mái nóc là khe lá gió bằng gỗ cao….m trang trí ba ô tròn chữ “Thọ” sơn đỏ trong khung vuông màu vàng bốn góc chạm hoa lá, hai bên chữ “Thọ” là băng hồi văn chữ “Vạn” dọc theo tạo thành câu chúc tụng “Vạn Thọ Vạn Vạn Thọ…”. Mái nóc là một hình tứ diện được vuốt bằng các đường cong mềm mại, bốn phía có đầu đao vút cao với tượng rồng uốn lượn hình sin. Đỉnh Đền là ngọn tháp có bốn phần dưới là quả cầu có hình nan quạt ở bán cầu dưới, đoạn trên hai tầng là búp hoa châu Âu xiên thẳng lên không trung.
Có chín cửa vào chia đều theo ba hướng: mỗi cửa gồm bốn cánh bằng gỗ trang trí chia ô, chạm thủng, chạm nổi, sơn son thếp vàng hoa lá mây cách điệu phía xa nhìn tựa như những bình hoa. Mi cửa chạm lộng hoa văn hình học và chữ Hán: Phúc – Lộc – Thọ. Trong nội thất: trần nhà chia chín ô chạm ngoài vuông trong tròn tượng trưng trời và đất trang trí đề tài rồng, phượng. Các khe lá gió giữa các cột cũng được chạm thủng, chạm nổi, sơn son thếp vàng, hồi văn chữ “Vạn”, ô tròn chữ “Thọ” giống như ngoại thất, phía dưới là bức chạm hoa lá, cuối cùng là rèm tam quan gỗ chạm “Lưỡng Long triều nhật” , “Phụng”, “Dơi” , “Mai”, “Lan”, “Cúc”, “Trúc”. Tường giáp mái trang trí các ô tranh tường chữ nhật cẩn gạch chủ yếu màu xanh đề tài “Hoa lá”, “Tứ thời”, “Lỗ bộ”, mỗi cạnh năm ô đối xứng trái – phải, trước – sau nhằm làm dịu độ vàng chói của các đồ sơn son thếp vàng.
Đền thờ thể hiện như nơi ngự triều được bố trí trang nghiêm, từ cửa chính vào có đủ lỗ bộ, chiêng, trống, tàn, lọng… Hai bên, chừa lối giữa làm nơi chiêm bái. Trước bàn thờ chính là ba lớp bàn hương án: lớp ngoài là kệ tam sơn trưng bày 18kg đất và 18lít nước do nhân dân tỉnh Phú Thọ tặng năm 2000, với ý nghĩa hướng về cội nguồn dân tộc. Lớp giữa cũng một kệ tam sơn trên có bình hoa, đĩa quả tử, hai bên là đôi hạc chầu, lớp trong là bàn gỗ chạm rồng trên có lư nhang bằng đồng, chân đèn, bình hoa.
Chính điện có câu đối lòng mo trên hai cột chính và ba bàn thờ, sau chính điện là hậu cung. Câu đối lòng mo ở hai cột chính chữ Việt trình bày kiểu viên tự với nội dung:
“Nắng mưa thế miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vẫn bền lâu
Con cháu còn tôn tổ hãy còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi”.
Ba bàn thờ gồm bàn thờ giữa và hai bàn thờ hai bên. Bàn thờ giữa có ba thần chủ được tàn và lọng che:
Thần chủ giữa: “Việt Nam Quốc Tổ Tiên Đế Hùng Vương Ngọc Bệ Hạ” – thờ Quốc Tổ Hùng Vương.
Thần chủ bên trái: “Việt Nam Lương Thần Danh Tướng Linh Vị” – thờ những bề tôi trung thành và tướng giỏi.
Thần chủ bên phải: “Việt Nam Bách Tính Tiên Tổ Linh Vị” – thờ Tổ Tiên Trăm họ Việt Nam.
Thần chủ của bàn thờ hai bên để trống ngụ ý thờ vọng các thế hệ tiền bối của nhân dân Việt Nam.
Các bàn thờ đều làm bằng gỗ quý chạm trổ “Tứ linh”, sơn son thếp vàng. Trên các bàn thờ có đầy đủ “Ngũ sự”: bình hoa, chân đèn, lư hương, đĩa quả tử, đài thờ và các chung rượu. Trong Đền còn có một chiếc kiệu rồng sơn son thếp vàng, dùng khi có những buổi lễ long trọng cần di dời thần chủ. Góc bên trái các bàn thờ còn có bàn thờ nhỏ, thấp, trên có thần chủ gồm 7 chữ Hán: “Tứ Phối Thập Triết Chi Linh Vị”- thờ bốn vị cùng được phối hưởng với Khổng Tử (Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung, Tể Ngã, Tử Cống, Nhiễm Hữu, Quý Lộ, Tử Du, Tử Hạ). Đây là dấu vết còn lại của khu vực thờ Khổng Tử năm 1954. Bàn thờ này mới được dời đi vào cuối năm 2006.
Ngoài ra, để tưởng nhớ về đất Tổ và các Vua Hùng, trong Đền thờ còn trưng bày hộp hình di tích Đền Hùng (Phú Thọ) giới thiệu cảnh quan hùng vĩ của vùng đất thiêng nơi Vua Hùng ngự trị, hai chiếc trống đồng lớn Ngọc Lũ và Hoàng Hạ – di sản văn hóa độc đáo của người Việt cổ – cách nay khoảng 2.500 năm được phục chế lại.
Phía ngoài Đền được bố trí cảnh quan phù hợp nơi tôn nghiêm: đường vào Đền dài 30m, hai bên có hàng sứ đỏ – trắng do Tổng thống Philippines trồng lưu niệm khoảng những năm 1930; hai chiếc đỉnh đồng: “Đỉnh Cao” và “ Đỉnh Anh” phỏng theo Cửu Đỉnh Huế – đặt ở hai góc trước Đền tượng trưng cho sự bền vững của đất nước, hai góc sau Đền là hai cây si cổ thụ rậm rạp tượng trưng cho gốc rễ sâu xa của toàn dân tộc. Bên phải Đền đặt tượng voi bằng đồng do vua Thái Lan tặng nhân chuyến thăm Sài Gòn của ông ngày 14.4.1930.
Đền Hùng là một trong những biểu tượng của Thành phố được chọn làm nơi hàng năm tổ chức lễ giỗ tổ Hùng Vương. Tại đây cứ đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh long trọng tiến hành tổ chức lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương, ôn lại truyền thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên, đồng thời bày tỏ quyết tâm bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Để tìm hiểu thêm về thời Hùng Vương dựng nước, xin mời quý khách tham quan Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh (đối diện Đền Hùng).