NỮ TƯỚNG TRIỆU TRỊ TRINH (225 – 248)
Theo cổ sử, Bà Triệu được biết đến với nhiều tên gọi như Triệu Ẩu, Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh hay Triệu Quốc Trinh… Bà là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (năm 225) ở vùng miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân (nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định, Thanh Hóa).
Thuở nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên.
Lớn lên, Bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ và chí lớn. Bà Triệu nổi tiếng với câu nói “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!” khi có người hỏi Bà về việc chồng con.
Năm 20 tuổi, bà cùng anh trai chiêu mộ hơn nghìn tráng sĩ ở núi Nưa, nay thuộc xã Tân Ninh, các huyện Triệu Sơn, Mậu Lâm, Như Thanh, Trung Thành, Nông Cống.
Vào năm Mậu Thìn (năm 248), thấy quan lại nhà Đông Ngô - Trung Quốc tàn ác, nhân dân khổ sở, Bà Triệu cùng anh trai dấy binh khởi nghĩa.
Từ hai căn cứ núi Nưa và Yên Định, hai anh em Bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn.
Cuộc khởi nghĩa do hai anh em Bà lãnh đạo, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Sức mạnh của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, khiến quân giặc khiếp sợ. Đang lúc ấy, anh Bà là Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân (vị Tướng yêu kiều).
Tương truyền giặc Ngô khiếp uy dũng của bà, có câu:
“Hoành qua đương hổ dị
Đối diện Bà Vương nan”
Nghĩa:
Múa giáo đánh cọp dễ
Đối mặt Bà vương khó
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập. Nghĩa quân của Bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm tháng thì bại trận. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu thìn (năm 248), lúc mới 23 tuổi.
Về sau vua Lý Nam Đế cho lập miếu thờ, phong Bà là "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".
Để tưởng niệm công lao của Bà Triệu, nhân dân địa phương đã lập đền thờ trên núi Gai. Khu di tích Bà Triệu thuộc địa phận xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc bao gồm Đền thờ và Lăng tháp đã được công nhận Di tích cấp quốc gia đặc biệt về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật vảo năm 2015 vừa qua.
Khu di tích Bà Triệu không chỉ là nơi ghi dấu ấn lịch sử, văn hóa mà còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm, một kho tàng các sự tích huyền thoại, ca dao, tục ngữ. Lễ hội đền Bà Triệu được tổ chức hàng năm, từ ngày 21 đến 23/2 âm lịch.
Trong dân gian hiện còn truyền tụng câu thơ ca
Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi.
Muốn coi, lên núi mà coi,
Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân.
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của Bà không chỉ làm cho kẻ thù run sợ mà còn là nguồn cổ vũ lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự chủ của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.