MỘT LOẠI HÌNH TẨU THUỐC CỔ - PGS. Lê Xuân Diệm
Vài năm lại đây, trên thị trường cổ vật tại TP.HCM, trong sưu tập cổ vật của một số tư nhân cũng như trong Bảo tàng một vài tỉnh ở Nam Bộ và Nam Tây Nguyên có sự hiện diện một loại hình cổ vật khá đặc biệt. Đó là những chiếc tẩu thuốc cổ được làm bằng đồng thau hoặc bằng đất nung. Hình dáng của chúng khá giống nhau gồm ba bộ phận hợp thành, một là bầu tẩu, một là ống tẩu và một là canh tẩu. Bầu tẩu và ống tẩu được đúc hoặc nặn liền một khối.
Bầu tẩu có dáng như một bông hoa kim cúc đang độ nở, phần thân bầu gồm hình các cánh hoa dính liền nhau cùng vưon cao, phần miệng bầu có dáng như một khối nhụy hoa nhô lên thành hình gần bán cầu tròn. Phần nối tiếp giữa thân và miệng là đường gờ sắc cạnh. Miệng bầu hình tròn, trong lòng bầu rỗng có hình phễu, phía dưới ở trung tâm có một lỗ nhỏ hơn thông với ống bầu.
Ống bầu có dáng của một ống tròn, hơi thu nhỏ về phía sau, phần trước ống uốn cong lên phía trên, liền với mặt đáy của bầu tẩu theo hướng hơi xiên chếch ra phía trước khoảng 100 độ so với chiều ngang của thân ống bầu. Mặt ngoài ống bầu được trang trí thêm bộ phận dài của hoa kim cúc bằng văn đắp nổi thành lá và văn khắc vạch hình các vòng đai thành hình cuống hoa.
Cán tẩu là bộ phận rời được cắm lồng vào bên ngoài hoặc dính vào bên trong ống bầu, có dáng hình ống tròn nhỏ có độ dài ngắn không cố định, được làm bằng đồng thau hoặc có thể là một ống tre nhỏ.
Ngoài những đặc trưng chung như nói trên, nếu quan sát cụ thể thì chúng có những biểu hiện có thể phân chia thành nhiều loại. Ở đây vì số lượng chỉ có bốn chiếc, có thể xác định có hai loại lớn.
Loại 1: được làm bằng hai loại chất liệu: đồng thau tạo thành hình dáng bên ngoài của tẩu, đất nung là phần thân phía trong. Trong đó phần bằng đồng thau được hoàn thiện trước, phần đất nung được làm sau. Tẩu có hình một bông hoa kim cúc gồm đủ các bộ phận: nhụy, cánh, chồi, lá, cuống hoa được đúc cùng lúc trong một khuôn. Các chi tiết trang tri trên bề mặt được hiện lên khá rõ ràng và sinh động. Có những đồ án hoa văn được đúc nổi như phần đầu rìa các cánh hoa, chân các cánh hoa các cành lá thành hình khối nổi ở mặt trên, mặt dưới ở cuối phần đài hoa, hai cặp chấm nổi tạo thành hình hoa ở hai mặt phải trái của ống tẩu. Ngoài ra có văn nhưng đường chỉ chìm tạo thành đường gân của cánh hoa, thành những đường vòng nằm ngang phía dưới cánh hoa, phía trên đài hoa, phía dưới đài hoa. Phần cuối ống tẩu không trang trí hoa văn, lại hơi thu nhỏ để dễ dàng đút vào trong cán tẩu. Tẩu được tạo dáng thật cân đối, hài hoà: hình hoa kim cúc được thể hiện rất sinh động, kết hợp rất tinh tế giữa hiện thực cụ thể với hình tượng khái quát hoá. Kỹ thuật đúc để tạo dáng tạo văn cho loại tẩu thuốc này có thể nói là khá phức tạp, tỉ mĩ đòi hỏi độ chuẩn xác cao. Thêm nữa, sau khi đúc xong phần ngoài, lại phải làm thêm công đoạn trét đất sét vào bên trong thân bầu tạo hình phễu … rồi nhét đất sét vào ống bầu, dùng cây que nhỏ xuyên qua thổi đất sét để làm lỗ thông cho ống bầu thông với đáy phễu của bầu tẩu. Cuối cùng là công đoạn nung dính phần đất sét. Đến đây, coi như việc làm tẩu thuốc mới được coi là hoàn tất.
Chiếc tẩu này thuộc cỡ nhỏ trong loại 1, chiều dài toàn bộ khoảng 7 cm, cao khoảng 4.5 cm, bầu tẩu cao khoảng 2 cm. Miệng tẩu rộng 2 cm, thành miệng dày 0.15 cm, phần miệng cao 0.7 cm, phần thân bầu cao 1.5 cm, đáy bầu khoảng 2 cm, ống bầu cao khoảng 2 cm, dài khoảng 6 cm (phần nằm ngang, đường kính rộng từ 0.8 cm (sau) đến 1.5 cm (trước), lỗ sau ống bầu rộng 0.3 cm.
Loại 2: được làm bằng hai loại đất sét có màu sắc và độ nung khác nhau. Loại đất sét mịn màu đen nhạt hơi úa vàng có độ nung cao, xương rắn chắc…được làm phần ngoài của tẩu. Phần này có dạng một bông hoa kim cúc mà về cơ bản tương đối giống với hình bông hoa ở loại 1 gồm đủ các bộ phận bầu tẩu và ống tẩu, với hình khối nhụy hoa làm phần miệng bầu, hình cánh hoa làm thân bầu. Đoạn trước của ống bầu làm thành hình chồi hoa và phần sau làm hình cuống hoa (đã bị gãy). Mặt ngoài tẩu thuộc loại này được vẽ văn rạch và đắp nổi để trang trí các chi tiết của bông hoa kim cúc. Các cánh hoa ở phần thân bầu được chia thành hai lớp. Lớp trên: nơi đầu các cánh hoa là hai đường chỉ uốn cong rồi xuống thẳng đứng vẽ hai sen; bên trong các cánh hoa là các đường chỉ song song theo chiều thẳng đứng tạo nên nhửng đường gân của cánh hoa; phía trên đầu các cánh hoa là một đường gờ nổi được cắt thành từng đoạn ngắn tương ứng với chiều rộng của mổi cánh hoa. Lớp dưới thì các cánh hoa đều được làm nổi hơi cao, rìa phía dưới các cánh hoa có hai đường chỉ bao quanh nửa dưới của phần miệng và phần dưới của thân bầu tẩu có trang trí những đường chỉ song song bao quanh thành vành đai. Phần trước ống bầu có hình đài hoa được trang trí văn đắp nồi tạo thành hình lá uốn cong dẹp ở phía trước tới mặt trên và mặt dưới ống bầu. Hai bên trái phải mặt ống tẩu còn có hình hoa bốn cánh được vạch rõ ở dưới. Ngoài ra còn có những đường chỉ song song uốn thành vòng cong từ hình lá đắp nổi ở mặt trên đến mặt dưới ống tẩu. Nhìn chung, về hình hài và bố cục các đề án hoa văn thể hiện trên loại tẩu thuốc này tương tự với loại trên. Song về cách trang trí có phần sắc sảo về đường nét, chính xác hơn về hình ảnh, theo đó, tính hiện thực được rõ nét hơn và tính hình tượng khái quát cao hơn. Sau khi hoàn tất công đoạn tạo dáng, tạo hoa văn phần ngoài tẩu, tiếp theo công đoạn thứ hai: trét phần bên trong bầu tẩu bằng loại đất sét màu vàng nhạt đượm hồng làm thành hình phễu bên trong nầu tẩu, đồng thời nhét đất sét vào trong ống tẩu. Lấy quẻ nhỏ xuyên thẳng dọc chiều dài ống tẩu qua thổi đất sét làm thành đường lỗ rỗng thông với đáy bầu tẩu. Công đoạn này tương tự như ở tẩu thuốc loại 1. Kỹ thuật chế tác loại tẩu thuốc này có phần kém phức tạp hơn so với loại 1 song về hình tượng và hoa văn thì có phần hấp dẫn hơn, sắc sảo của mặt tẩu và của các đồ án trang trí.
Kích thước của chiếc tẩu này lớn hơn loại tẩu trên. Toàn thân cao đến 6 cm, chiều dài khoảng 5 cm, bầu cao 3 cm, phần miệng cao 1.1 cm, phần thân cao 2.1 cm, miệng bầu rộng 3 cm, dày 0.1 cm; ống tẩu cao 2.5 cm, đường kính ống tẩu 1.1 cm, dày 0.1 cm; bầu cuối của ống tẩu bị gãy, đất sét bên trong ruột ống tẩu bị khoét lấy ra, do đó không định được chiều rộng của lỗ thông với bầu tẩu; đồng thời cũng không thể biết cán tẩu được đút vào bên trong hoặc bên ngoài ống tẩu.
Loại 3 được làm bằng đất sét mịn được nung chín có màu sắc giống như màu gạch vàng hồng hoặc nâu nhạt. Hình dáng chung, bố cục hoa văn có dạng một bông hoa kim cúc gồm đủ các bộ phận: bầu tẩu và ống tẩu tương ứng với các phần của bông hoa gồm đài hoa và cuốn hoa của đoá hoa kim cúc. Loại này được tạo hình và hoàn thiện các phần chỉ trong một công đoạn. Cách thức trang trí, hình ảnh thể hiện có phần đơn giản hơn và không sắc sảo, không nổi rõ như loại 1, loại 2. Cánh hoa nhỏ mỏng nổi dài song song từ trên xuống dưới phân thành hai lớp: trên đầu cánh hoặc ở mỗi lớp hoặc chỉ có ba chổm chấm nhỏ hoặc chỉ vạch ba đường song song rất ngắn; nữa dưới phần miệng với phần dưới bầu tẩu có vạch những đường chỉ mờ nhạt. Ống tẩu có gân văn đắp nổi hình lá dạng chữ nhật mỗi lá có vạch vài ba đường song song, ở mặt trên và mặt dưới ống tẩu có văn hình hoa nhỏ bốn cánh hình tròn ở mặt bên trái phải đối xứng nhau. Ngoài ra có ba đường song song uốn cong từ hình cành lá phía trên đến hoa lá phía dưới làm mép dưới của đài hoa. Phía sau hình chồi hoa là phần cuống hoa có đường gờ nổi bị ngắt thành từng đoạn ngắn tương tự như đề án “liên châu” (nhiều hạt châu liền nhau); phía trước và phía sau đường văn hổn châu là những đường chỉ song song chạy vòng quanh ống tẩu. mặt sau ống tẩu khá phẳng. Ống tẩu rỗng thành đường lỗ tròn thông với ruột bầu tẩu có hình dạng phễu. Đường lỗ bên trong ống tẩu khá lớn và thường rất tiện cho việc đút cắn tẩu vào trong mỗi lúc cần hút thuốc. Loại tẩu này từ kỹ thuật tạo dáng, tạo hoa văn đều có phần đơn giản hơn nhiều so với hai loại trên. Về mặt nghệ thuật cũng không đủ sắc sảo, tỉ mĩ, tinh tế. Một chiếc khác cũng thuộc loại tẩu này có hoa văn được trang trí tỉ mĩ hơn phần nào được thể hiện ở phía đầu các cánh hoa được khắc thành hình nhiều tam giác nổi cân đối. Hình lá ở phần ống tẩu có những đường chấm nhỏ chạy quanh rìa lá.
Hai chiếc tẩu thuộc loại này có kích thước chênh lệch nhau không lớn. Một chiếc có chiều cao toàn bộ là 5.5 cm, chiều dài khoảng 6.5 cm, bầu tẩu cao 2.5 cm, phần miệng cao 1 cm, thân cao 1.5 cm, miệng rộng 2.4 cm. Ống tẩu cao 3 cm, dài khoảng 5.5 cm, ống tẩu rộng 2 cm (phía trước), 1.5 cm (mặt cuối), đường kính lỗ ống tẩu 0.9 cm, sâu khoảng 5cm. Một chiếc có chiều cao toàn bộ khoảng 6.6 cm, chiều dài 7 cm, bầu cao 3 cm; phần miệng cao 1.2 cm; phần thân cao 1.8 cm, miệng rộng 2.2 cm; ống tẩu cao 2 cm (phía trước) 1.5 cm (phía sau), đường kính ống tẩu 0.9 cm, sâu khoảng 5 cm.
Ba loại tẩu thuốc trên có sự khác biệt cụ thể từ kỹ thuật chế tác tạo dáng, tạo văn đến những chi tiết bố cục thể hiện và hoa văn trang trí. Song chúng cũng thuộc một loại hình lấy đoá hoa kim cúc làm hình tượng thể hiện. Chúng thuộc loại hình tẩu thuốc kim cúc. Đây là hình ảnh nghệ thuật không cầu kỳ nhưng đòi hỏi sự tỉ mĩ, tinh tế, mềm mại thanh nhã như bản chất của loài hoa kim cúc. Một loài hoa có dáng đẹp, sắc tươi, hương thơm dịu, vị thanh tao. Người xưa chọn hoa kim cúc làm thành hình tuẩ thuốc đề tôn lên vẻ đẹp cho một loại đồ dùng mà bấy giờ được tôn vinh như vật bất ly thân với cuộc sống của con người. Một mặt khác, chính loại hình tẩu thuốc kim cúc cũng cho thấy trình độ thẫm mỹ, kỹ thuật chế tác tẩu thuốc của người đương thời đạt đến trình độ thật tinh tế, có tính nhân văn cao. Trong các loại đồ dùng hút thuốc từ điếu cầy, điếu bát, điếu ống có cần truyền thống đến thuốc lá “hiện đại xem ra loại hình điếu ống có cần là có thể đối sánh về mặt nghệ thuật nhựng lại kém xa về mặt sử dụng. Điếu ống có cần chỉ có thể dùng hút trong nhà mà chủ yếu dành cho lớp người giàu sang, phú quý. Loại tẩu thuốc có dáng hoa kim cúc vừa đẹp, khá hấp dẫn lại tiện dụng bởi nó nhỏ, gọn, tháo lắp cắn tẩu dễ dàng, mang theo thuận tiện, có thể ngậm hút trong thời gian dài, thoả mãn theo sở thích của người hút.
Đây là loại tẩu thuốc hẳn đã có từ lâu đời, đã trở thành cổ vật theo thông tin hiện biết, chúng được những người thu thập từ trong các vùng hiện là nơi sinh sống lâu năm của đồng bào dân tộc ít người. Đó là địa bàn thuộc huyện Bảo Lộc, Di Linh phía nam tỉnh Lâm Đồng. Trên địa bàn này, khảo cổ học đã phát hiện nhiều khu mộ cổ có chôn theo nhiều cổ vật gốm sứ, đồng thau, sắt, thuỷ tinh… Chúng được coi thuộc cùng một nền văn hoá cổ - Văn hoá đại làng đã phát triển đến đỉnh cao vào khoảng thế kỷ 15 – 17. Có điều trong hàng ngàn cổ vật đã thu thập thuộc nền văn hoá này lại chưa thấy sự hiện diện loại tẩu thuốc độc đáo này. Có nhiều khả năng, loại tẩu thuốc này là loại vật dụng được trân trọng và thường xuyên gắn liền với sinh hoạt hằng ngày, trở thành vệt “thuyền thể” từ đời người này sang đời người khác. Bởi vậy, chúng đã không được chôn theo trong mộ của chủ nhân văn hoá “Đại làng” (Lâm Đồng).
Trong khi đó, trên vùng thượng Lào thuộc xứ sở vạn tượng (Viêngchăn) nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã phát hiện loại tẩu thuốc có dạng tương tự trong một địa điểm khảo cổ ở Sisattanak. Tại đây, khảo cổ học đã phát hiện một quần thể gồm 20 di chỉ lò gốm cổ. Cuộc khai quật vào năm 1989[1] một di chỉ lò gốm nói trên phát lộ và thu thập được hơn 1500 cá thể tẩu thuốc (Nguyễn bá )cùng với hàng ngàn các loại đồ gốm, gốm men… trong tổng số hơn 1500 cá thể tẩu thuốc thì có khoảng 1506 cá thể tẩu thuốc loại đất nung rắn như đá (stoneware), 6 cá thể tráng men ( glazed ware) và một mảnh thuộc loại đất nung thông thường ( earth ware )
Người khai quật cho biết: “hầu hết tẩu thuốc (pi pe) ở đây về hình dáng, gồm một cái bát (dạng cái bát) đặt thẳng đứng trên phần thân. Đa số các “bát” này cách biệt với phần thân bằng một đoạn hẹp (gọi là cổ). Nhìn chung “bát” là bộ phận rộng nhất, nhưng bộ phận thân lại khá hẹp - dung tích của “bát” thay đổi theo cỡ của tẩu thuốc. Đại đa số dung tích của “bát” vào khoảng 4ml (4cc), dung tích bát lớn nhất khoảng 9ml (9cc), bé nhất khoảng 1ml (1cc). Bên trong lòng bát thường được nén thành hình chữ U (dưới dạng phểu hình chữ U) có lỗ ở dưới đáy tròn thông với một lỗ khác xuyên qua cán tẩu. Đầu cán tẩu thu nhỏ, đường kính tẩu cán tẩu khoảng 15 – 20mm. Với vài chiếc khác thì đoạn cuối của cán tẩu lại rộng ra. Chỉ hai chiếc còn lại cả tẩu thuốc đều được trang trí hình chim, hình cánh hoa, đồ án hình học. Phần lớn hình hoa là những đồ án dạng cành nho hoặc dây leo (scroll) hoặc những hình hoa từ cánh hoa sen với nhiều biến thể, chúng được thực hiện bằng khuôn hoặc bằng tay. Người ta đã phân ra 8 loại hình tẩu với những biểu hiện cụ thể khác nhau từ dáng “bầu” hoặc từ những đồ án trang trí. Đồng thời, người ta cũng ghi nhận có những chiếc tẩu thuộc về hình dáng và hoa văn thể hiện tính địa phương; song cũng có nhiều đồ án hoa văn và phong cách tẩu thuốc có mang ảnh hưởng từ Myanmar và có thể cả Campuchia. Ngoài ra, còn thấy có hiện tượng như đồ án hoa văn trên những chiếc tẩu được phát lộ hình lò gốm cổ hay đều không thấy trên các tẩu thuốc cùng loại được thu thập trên bề mặt trên các di chỉ lò gốm ở chung quanh. Điều đó cho thấy dường như mỗi lò có những khuôn, những đồ án hoa văn riêng của nó. Niên đại của những di tích lò gốm này được xác định vào khoảng thế kỷ XV.
Như vậy, những tẩu thuốc trong mỗi lò gốm cổ trong di tích Sisattanak đều có dáng hình hoa văn riêng, độc lập, nếu liên hệ với những tẩu thuốc đã thu thập được trên đất Bảo Lộc – Di Linh (Lâm Đồng) thì rõ ràng chúng có sự khác biệt khá lớn, tính độc lập khá cao. Tuy chúng thuộc loại tẩu thuốc có “bầu” (hoặc bát) có “cân” (nhìn ra là ống tẩu) có dáng chúng gần nhau, song hầu như không thuộc cùng một phong cách: nổi rõ nhất, những tẩu thuốc cổ ở Lâm Đồng (Việt Nam) được gọi chung là tẩu thuốc hình hoa kim cúc, trong khi đó ở Sisattanak lại có nhiều biểu hiện cụ thể về dáng “bát”, về đồ án hoa văn. Ngoài ra còn thấy rõ về mặt kỹ thuật chế tác thì loại tẩu thuốc dạng hoa kim cúc phức tạp hơn, tỉ mỉ hơn, chuẩn xác hơn. Sản phẩm có dạng hình quy chuẩn, trang trí sinh động, sắc sảo hơn. Ở đây về chất liệu ngoài loại tẩu bằng đồng thau còn có loại sét đặc biệt như đá núi. Có thể nói loại tẩu thuộc dạng hoa kim cúc (Lâm Đồng) là sản phẩm ưu việt hơn về nhiều mặt, nó gắn liền với sự phát triển của cộng đồng người và xã hội tại chỗ trên vùng đất Nam Tây Nguyên vào thời kỳ nền văn hóa Đại Làng đạt tới đỉnh cao của nó (thế kỷ XV – XVII). Mặt khác, cũng cần ghi nhận sự hiện diện của loại tẩu thuốc này trong không gian rộng lớn từ Myanmar – Lào – Nam Tây Nguyên (Việt Nam). Rõ ràng, vào thời bấy giờ, cộng đồng cư dân Văn hóa Đại Làng đã có mối quan hệ rộng rãi với nhiều vùng lãnh thổ trong nội địa và với các quốc gia ở vùng duyên hải Nam Trung bộ, bắc Việt Nam và với các nước hải ngoại (Trung Quốc, Nhật).
[1] Don Hein … “An excavation al Sisattanak kilnsite. Vientian – Lao P.D.R, 1989” Sydney /NSW2006.122p