KHẢO SÁT ĐỊA ĐIỂM KHẢO CỔ HỌC SÔNG XOÀI 2 (XÃ SÔNG XOÀI, HUYỆN TÂN THÀNH - BÀ RỊA – VŨNG TÀU)
Tháng 7 năm 2012, ông Chống Sương Màu (một người dân Tp.Hồ Chí Minh) có tặng cho Bảo tàng Lịch sử - Tp.Hồ Chí Minh một số di vật đá gồm: 1 cuốc, 1 bôn và 1 rìu; đồng thời cung cấp thông tin về nơi phát hiện các di vật này. Nhận được thông tin, để kiểm chứng lại hiện trường, chúng tôi đã có cuộc khảo sát ở khu vực phát hiện những di vật trên.
Lương Chánh Tòng
Nguyễn Việt Trung
1. Di chỉ
Khu vực phát hiện di vật có tọa độ địa lý 10041’1,78” vĩ độ Bắc; 107009’51” kinh độ Đông. Nằm trong khu đất trồng cây của ông Chống Sương Màu, thuộc Tổ 9, Ấp Sông Xoài 2, xã Sông Xoài, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đây là khu đất đồi bazan nằm theo hướng Bắc Nam có dạng bình nguyên. Khu vực có diện tích hàng chục ha, có một con đừơng nhựa cắt ngang trên đỉnh đồi theo hướng Bắc Nam mà nhân dân quanh vùng gọi là đường Miếu Quan Âm. Dưới chân khu vực đồi bazan này là một con suối nhỏ (nhân dân gọi là suối Sông Xoài) bắt nguồn từ khu vực đất rừng cao từ Long Thành (Đồng Nai), đổ về rồi chảy vào Hồ Đa Đen. (Hình 1)
Hình 1: Khu di chỉ Sông Xoài 2
Tại hiện trường, trên bề mặt khu vực đất đồi nằm dốc nghiêng khoảng 300 đổ theo hướng từ đỉnh đồi về hướng suối (độ cao chênh so với mặt suối khoảng từ 1,2m đến 15m) có nhiều dấu vết nổi trên bề mặt như hạch đá, phiến tước, bàn mài, phế vật và một số mảnh gốm tập trung nhiều ở khu vực giữa triền. Từ lời kể của nhân dân, kết hợp với quan sát hiện trường qua các hố đào trồng cây, chúng tôi nhận thấy di vật nằm ở cách mặt đất hiện tại khoảng 30 - 40cm, trong tầng văn hóa có lớp đất màu nâu đỏ. (Hình 2)
Hình 2: Hiện trường bề mặt di chỉ Sông Xoài 2
2. Di vật
Về di vật, cùng với hiện vật đã sưu tầm do người dân tặng, có rất nhiều di vật đá, gốm nổi trên bề mặt, tất cả đều có dấu vết của kỹ thuật chế tác và sử dụng. (Hình 3)
Sưu tập di vật đá Sông Xoài 2
(Hình: Lương Chánh Tòng)
Chúng tôi đã chỉnh lý sơ bộ như sau :
- 01 cuốc đá: hình tứ giác, có vang ngang xuôi, kích thước dài 17,8cm, rộng ngang 8,6cm, thân chỗ dày nhất 1,4cm, chất liệu dạng đá sét kết màu xanh xám, phủ mỏng một lớp patine màu xám trắng. Cuốc đã bị mẻ một số điểm ở rìa lưỡi. Trên thân còn một số điểm chưa mài hết ở cả hai mặt. (Hình 4, bản vẽ 1)
Hình 3: cuốc đá
(Hình: Lương Chánh Tòng) Bản vẽ 1: cuốc đá
(Bản vẽ: Lương Chánh Tòng)
- 01 rìu (bôn): hình tứ giác, không có vai. Kích thước dài 7cm, rộng nhất 2,8cm, dày nhất 2cm. Chất liệu dạng đá sét kết màu xám đen. Một mặt mài nhẵn, một mặt còn để nguyên ở dạng mới bóc tách. Lưỡi vát lệch về một bên. (Hình 5, bản vẽ 2)
Hình 4: Rìu (bôn) đá
(Hình: Lương Chánh Tòng) Bản vẽ 2: Rìu (bôn)
(Bản vẽ: Lương Chánh Tòng)
- 01 rìu: hình tứ giác, không có vai. Kích thước dài 3,9; rộng phần lưỡi 4,3cm; dày nhất 2,1cm. Chất liệu đá sét kết màu xanh xám, có một lớp patine phủ bên ngoài màu xám trắng (Hình 6, bản vẽ 3).
Hình 5: Rìu đá
(Hình: Lương Chánh Tòng) Bản vẽ 3: Rìu đá
(Bản vẽ: Lương Chánh Tòng)
- 01 mũi khoan (đục)?: kích thước dài còn lại 4,1cm; rộng 2,1m. Chất liệu đá sét kết, màu xám xanh, đã gãy hai đầu, còn nhận dạng được ở dạng phiến tước với các điểm ghè, bóc tu chỉnh.(Hình 7).
Mũi khoan – đục?
(Hình: Lương Chánh Tòng)
- 01 bàn mài: Kích thước 19cmx13,2cmx5,8cm. Trên một mặt còn để lại rãnh mài dọc theo chiều dài của khối và một rãnh lõm sâu. chất liệu đá cát kết.
Hình 6: Bàn mài đá
(Hình: Lương Chánh Tòng)
Ngoài ra còn có một số hạch đá, mảnh tước, phế vật dạng khoan – đục …và một số mảnh thân của đồ đựng bằng gốm có xương có xương màu xám vàng, có pha nhiều cát và bã thực vật.
3. Nhận định sơ bộ
Từ khảo sát hiện trường, căn cứ kết quả nghiên cứu sơ bộ về di vật, qua so sánh với một số tư liệu đã công bố về các di tích khảo cổ học ở khu vực Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh…bước đầu chúng tôi nhận định, đây có thể là một di chỉ khảo cổ học có tính chất công xưởng chế tác đá, kết hợp với dấu tích cư trú của cư dân văn hóa Đồng Nai cách nay khoảng từ 2500 năm đến 3000 năm, có tính chất đồng đại với một số di tích khác ở trong khu vực đã được phát hiện và công bố như Gò Cây Me, Gò Cá Sỏi (Tân Thành – Bà Rịa – Vũng Tàu), rộng hơn là khu vực Đồng Nai: Đồi Phòng Không, Bình Đa, …và tạm gọi tên là di chỉ Sông Xoài 2.
Để đánh giá hiện trạng cũng như tiềm năng của di chỉ Sông Xoài 2, rất cần có những cuộc khảo sát, thám sát và khai quật khu di chỉ này, nhằm bổ sung tư liệu, đóng góp bổ sung và ghi nhận thêm về một địa điểm khảo cổ quan trọng đối với việc nghiên cứu tiền sơ sử Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng và tiền sơ sử miền Đông Nam Bộ nói chung trên bản đồ khảo cổ học, cũng như cung cấp tư liệu về một môi trường cảnh quan, lịch sử vùng đất trước khi người Việt đầu tiên dừng chân từ miền Trung vào khai phá vùng đất Nam Bộ - Xứ Mô Xoài – Bà Rịa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng 1991: Khảo cổ Đồng Nai. NXB Đồng Nai. Biên Hòa.
2. Bùi Chí Hoàng 2004: Những nét phác thảo về khảo cổ học tiền sử Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam. Tập 2. NXB KHXH. Hà Nội. Tr.13-40.
3. Bùi Chí Hoàng 2008: Hệ thống các di tích vùng ngập mặn ở Đông Nam Bộ. Trong Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam. Tập 3. NXB KHXH. Hà Nội. Tr.27-50.
4. Phạm Chí Thân 2008: Khảo cổ học Bà Rịa – Vũng Tàu – Phát hiện và nghiên cứu. Trong Di sản văn hóa Bà Rịa – Vũng Tàu. Số 11. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xuất bản. Tr. 71-74 .