ĐÔI DÒNG VỀ CUỘC TRƯNG BÀY “CỔ VẬT GỖ THỜI NGUYỄN” TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ - TP. HỒ CHÍ MINH
Năm 2006, nhân kỷ niệm 31 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Tp. Hồ Chí Minh kết hợp với một số nhà sưu tập tại Thành phố(1) trưng bày chuyên đề “Cổ vật gỗ thời Nguyễn”. Chuyên đề này được trưng bày tại một phòng trang trọng, cách trưng bày khá ấn tượng, đảm bảo về nội dung cũng như hình thức và đặc biệt, các hiện vật ở đây rất phù hợp với cảnh quan, kiến trúc và không gian của ngôi nhà, tạo nên hiệu quả cao.
Theo thống kê của Bảo tàng, chỉ trong vòng sáu tháng sau khai mạc đã có 150.000 lượt khách tham quan, trong đó có có gần 40.000 lượt khách nước ngoài(2). Đặc biệt, trong dịp này có nhiều đoàn khách quốc tế quan trọng tham quan Bảo tàng và chuyên đề này như Tổng Thư ký WTO Pascal Lamy, đoàn Tổng thống Hoa kỳ George Bush cùng phu nhân, Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Condoleeza Raice, Bộ Văn hóa Thông Tin Campuchia,… nhìn chung, chuyên đề này có sức hấp dẫn và nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, sưu tầm cổ vật đánh giá cao.
Chúng tôi xin giới thiệu sơ lược về một số loại hình hiện vật, sưu tập hiện vật của Bảo tàng và của các nhà sưu tập tư nhân được trưng bày như sau:
Những hiện vật trưng bày tại đây khá đa dạng về loại hình, phong phú về kiểu dáng, hoa văn, độc đáo về kỹ thuật chế tác… Có thể căn cứ theo chức năng sử dụng của những vật phẩm này, chúng tôi chia thành các nhóm như sau: đồ trang trí, đồ thờ cúng, lễ nghi, đồ dùng trong sinh hoạt, đồ dùng làm dụng cụ (cân, thước), nhạc cụ…
1. Nhóm hiện vật dùng trang trí
1.1 Hoành phi là biển gỗ hình chũ nhật có khắc chữ Hán lớn thường treo giữa gian nhà để thờ hay trang trí. Trên hoành phi, chữ Hán hay các họa tiết trang trí khác thường được chạm khắc hoặc cẩn ốc hoặc sơn son thiếp vàng. Nội dung chữ Hán của hoành phi gồm những câu trích dẫn từ những tác phẩm kinh điển của Nho giáo, những ý đẹp lời hay, có thể cao siêu, thâm thúy hoặc cả một bài thơ để cung tiến, thờ phụng, tặng nhau trong dịp nào đó. Một số hoành phi trưng bày ở đây chủ yếu là loại có chữ Hán:
- Hoành phi cẩn ốc, khung nổi chạm lộng, có chữ Hán “Thiện Tối Lạc” (điều lành rất vui)(3) của Bảo tàng lịch sử Việt Nam - Tp.HCM (BTLS). Ba chữ của hoành phi này được cẩn ốc theo kiểu “cây lá hóa chữ” rất độc đáo. Nếu nhìn thoáng qua, chúng ta chỉ thấy ba chữ Hán viết bay bướm, nét chữ rõ ràng, nhưng đến gần, đây lại là bức tranh có ba cây cổ thụ với đầy đủ gốc, cành lá, phía trên là những chú chim sẻ tư thế bay lượn. Chính những gốc, cành, lá, chim… là những nét sổ, ngang, chấm, phẩy, mác để tạo thành chữ.
- Hoành phi cẩn ốc có chữ: “Vạn Gia Sinh Phật” (Phật sống muôn nhà) của Nguyễn Trọng Cơ. Ngoài ra, bức hoành phi này còn có dòng lạc khoản: “Tuy Hòa An Phú Hàn lâm viện Trước tác sung Hội đồng tỉnh hạt hội viên Đặng Hữu Cúc, Kiểm bộ Đặng Hữu Nhung, Cung phụng Nguyễn Tài Chính đồng bái hạ”. (Hàn lâm viện Trước tác sung Hội đồng tỉnh hạt hội viên Đặng Hữu Cúc, Kiểm bộ Đặng Hữu Nhung, Cung phụng Nguyễn Tài Chính ở An Phú Tuy Hòa cùng lạy mừng).
1.2 Cuốn thư về cơ bản cũng là loại hoành phi nhưng được chế tác theo kiểu một quyển sách đang mở. Hai cạnh dọc cuốn thư thường được chạm thành hình cây bút hoặc thanh kiếm. Có 05 cuốn thư sau:
- Cuốn thư chạm lộng, sơn son thếp vàng, của Trần Anh Dũng chạm đề tài: “mai trúc hóa rồng”, “cây lá hóa rồng phượng” hoặc “lưỡng long chầu nhật”, hoa cúc, chim phụng. Cuốn thư có chữ: “Văn Học Uẩn Tạ” (văn học uyên thâm).
- Cuốn thư chạm nổi, sơn son thếp vàng Nguyễn Thị Lê, có hai chữ: “Thế Lộc” (hưởng lộc nhiều đời).
- Cuốn thư chạm nổi, sơn son thếp vàng của Lê Văn Nhã có hai chữ: “Du Quang” (Ánh sáng tốt đẹp).
- Cuốn thư gỗ sơn son thấp vàng của BTLS có bốn chữ: “Tài Hoằng Lang Miếu” (Gỗ to lang miếu) và dòng lạc khoản: “Nhâm thìn niên trọng thu nguyệt cát tạo.Mỹ Lương thôn Hương chánh Lê Văn Quế bái hạ”. (Ngày tốt tháng 8 năm Nhâm Thìn (1892). Hương chánh thôn Mỹ Lương Lê Văn Quế lạy mừng).
- Cuốn thư chạm lộng rồng - phượng - điểu của Lê Văn Lập có bốn chữ: “Phủ Hoàng Du Phất”, ngoài ra có dòng lạc khoản: “Khải Định Tân Dậu xuân tam nguyệt. Thanh Hóa tỉnh Di Linh ấp Nguyễn Văn Mỹ Nguyễn Văn Cửu đồng bái phụng.
(Áo lễ nghiêm trang. Tháng 3 mùa xuân năm Khải Định Tân Dậu (1921). Nguyễn Văn Mỹ, Nguyễn Văn Cửu huyện Di Linh tỉnh Thanh Hóa cùng bái phụng).
1.3 Câu đối là thể văn cũ gồm 2 câu có số lượng từ bằng nhau và đối chọi nhau cả lời lẫn ý. Câu đối thường theo luật, chặt chẽ từng câu, chữ, ý tứ, thanh điệu… Câu đối thường thể hiện trên hai tấm gỗ hình chữ nhật dài, phẳng hay lòng mo với đề tài trang trí tương đồng với hoành phi, cuốn thư về các hình tượng, đồ án hoa văn, chất liệu, màu sắc, kỹ thuật tạo tác… và treo hai bên để giải thích thêm nội dung của hoành phi, cuốn thư. Ở đây có một số cặp câu đối:
- Câu đối gỗ cẩn ốc của Nguyễn Thị Lê: “Tĩnh quan giai tự đắc - Giai hứng dữ nhân đồng” (Lặng xem đều tự đắc - Hứng thú với người cùng).
Ngoài kỹ thuật cẩn ốc như một số hiện vật khác, các chữ của 2 câu đối này đều được cẩn ốc, thể hiện bằng phương pháp cách điệu theo kiểu người, cảnh vật hóa chữ. Các nghệ nhân đã dùng những mảnh trai, ốc tạo tác những hình người, ngựa, nhà cửa, lâu đài, cảnh vật… gắn chắp thành những nét chữ. Trong mỗi chữ, nếu nhìn kỹ chúng ta có thể thấy được cảnh người, cảnh sinh hoạt hay một điển tích nào đó của Trung Quốc, đặc biệt, tích Tam Quốc diễn nghĩa được sử dụng nhiều trong các đồ án hoa văn (trong dịp sau, có điều kiện, chúng tôi sẽ tìm hiểu thêm về các điển tích này).
- Câu đối cẩn ốc của Nguyễn Thị Tú Anh: “Hải ốc phong hòa hoa chính mậu - Cẩm đường nhật lệ quế sinh hương” (Nhà biển gió hòa hoa thắm sắc - Thềm son nắng sáng quế bay hương).
- Câu đối gỗ cẩn ốc của BTLS: “Hạnh lâm mộc mỹ thiên kha phát - Nguyệt thủy nguyên trường vạn phái thông” (Rừng hạnh cây tươi ngàn nhánh nảy - Sông trăng nguồn thẳm vạn dòng trong).
1.4 Tứ bình (tranh liễn) là bốn bức tranh bằng gỗ chạm chữ Hán hoặc tranh, hoặc cả chữ và tranh, thường có ý nghĩa về bốn loại: tứ bửu (4 đồ quý) hay tứ thời (4 mùa), tứ nghệ (4 nghề)… Tứ bình được treo liền mạch khít nhau hoặc theo vị trí các cây cột trong nhà, đôi khi cũng được sử dụng như câu đối vì ý nghĩa của tứ bình cũng thường đối nhau. Nếu tứ bình chỉ có hai bức được gọi là nhị bình.
Các loại hoành phi, cuốn thư, câu đối, nhị bình, tranh liễn trưng bày tại đây đều có nội dung sâu sắc. Về hình thức được các nghệ nhân dùng những thủ pháp, kỹ thuật chế tác gỗ điêu luyện: chạm chìm, nổi, chạm lông; cẩn ốc; sơn son thiếp vàng… đồng thời thể hiện nghệ thuật thư pháp với nhiều kiểu viết chữ: thảo, triện, người, cảnh vật, hóa chữ, cây lá hóa chữ.
- Một cặp tranh liễn cẩn ốc của Trần Văn Hùng thể hiện 2 bài thơ đối nhau:
1. “Y hồi phong vãn phi sương thiểu, (Bạn về núi xế hơi sương mỏng,
Xuân đáo nhân gian thảo mộc tri. Xuân tới nhân gian cỏ tự tươi.
Ngưỡng giác nhãn tiền sinh ý mãn, Ngước mắt cõi đời tràn sức sống,
Đông phong tự thủy đáo si si". Gió xuân như nước tới đầy vơi)
2. “Bộc trúc thanh trung nhất tuế trừ, (Năm cũ trôi trong tiếng pháo ran,
Xuân phong tống noãn nhập đồ ngư Xuân đưa hơi ấm tới nhân gian.
Thiên môn vạn hộ chàng chàng nhật, Ngàn nhà muôn cửa lung linh nắng,
Tong bả tân đào hoán cựu phù”. Bùa mới đem thay giấy cũ tàn).
1.5 Bức trướng chạm gỗ sơn son thếp vàng của Nguyễn Thị Tú Anh có nội dung:
“Chính kỳ y quan, tôn kỳ trọng trì, đức hậu miên trường. Di bách niên chi yến dực, lưu dịch diệp dĩ thư hương. Truy tư ngoại thích, lễ bất cảm vương (vong). Tý tư tôn điệt, nguyện hiến phân phương”.
“Đinh mùi niên manh hạ thượng cán cát nhật - Bùi phủ kính phụng”.
(Sửa sang áo mũ, tôn trọng anh em, đức dày miên trường. Tính kế hay cho trăm thuở, lưu dòng dõi nối thư hương. Nhớ ơn họ ngoại, lễ chẳng dám quên. Phù trì cho cháu, dâng hiến đèn hương - Ngày tốt tháng 4 năm Đinh Mùi (1907) - (Bùi phủ kính phụng)
1.6 Bao lam đề tài trang trí “Sóc – Giác” của BTLS. Các chi tiết được tạo tác tỉ mỉ, công phu đến từng chi tiết: sóc đang ăn trái với nhiều tư thế khác nhau, nhiều trái giác bị cắn một nửa… Chúng ta thường gặp kiểu bao lam trang trí này ở một số chùa cổ ở thành phố HCM và Nam Bộ.
Ngoài những hiện vật kể trên, phòng trưng bày còn một số bức tranh gỗ (chạm nổi, chìm, sơn son thếp vàng, cẩn ốc) với nhiều đề tài, cảnh vật phong phú như: “sen – vịt – cào cào”; “tùng – hạc – châu chấu”; “lân giáo tử”… Nhìn chung, các bức tranh có bố cục hoàn hảo, các chi tiết được chạm khắc, tỉa tót tỉ mỉ, sinh động.
2. Nhóm hiện vật dùng làm đồ thờ cúng
Nhóm này gồm nhiều loại như tủ thờ, khám thờ, bệ thờ, đài thờ, hộp đựng bài vị, chân đèn, bình hoa, mâm bồng, sập thờ… Nhìn chung, đồ gỗ dùng làm đồ thờ cúng đều chạm khắc, sơn son thếp vàng, có khi cẩn ốc, cẩn ngà và được mọi tầng lớp nhân dân ưa chuộng. Có thể nói, nhóm đồ này được tạo tác, trang trí khá kỹ, cẩn thận trong mỗi đường nét, nó vừa thể hiện trình độ tay nghề cao của nghệ nhân trong kỹ thuật, vừa gửi gắm cái tâm, tấm lòng hiếu kính với ông bà, tổ tiên, thần linh hay những người đã khuất của người đặt hàng. Một số hiện vật tiêu biểu như:
2.1 Tủ thờ là chiếc tủ mà phía trên nóc tủ để các vật dụng thờ cúng như bát nhang, lư hương, chân đèn, ống hương, bình hoa… Chiếc tủ thờ của Nguyễn Thị Lê cẩn ốc, ngà khá đẹp. Các đề tài trang trí chia thành nhiều ô tập trung ở mặt trước. Đề tài chính: “Ngư Long Hí Thủy”, và đề tài thể hiện tích “Nhị Thập Tứ Hiếu” (24 gương hiếu thảo). Thông qua những đề tài này, cha ông ta đã có ý thức dạy bảo con cháu, khuyên chúng ta hãy làm những điều thiện, có ích cho gia đình, xã hội, mang tính giáo dục.
2.2 Khám thờ của BTLS ở chính giữa có 3 chữ Hán “Tế Như Tại” (nghĩa là Thờ cúng như (tổ tiên) đang ở đó).
- Câu đối 2 bên: “Hựu hậu nhân hiến hồ vi báo- Tự tiên tổ như tại kỳ thượng”. (Giúp đời sau không mong báo đáp - Thờ tổ tiên như (tổ tiên) đang sống trên đời).
- Mặt sau cách cửa, mỗi bên có 9 chữ Hán: “Trở đậu hạnh năng truyền, tế dã như tại - Y quan tuy bất tác, vọng chi nghiêm nhiên” (Đồ cúng tế có thể truyền (hình ảnh của tổ tiên cho đời sau để), lúc thờ cúng (con cháu) như đang thấy tổ tiên trước mặt - Tuy không làm áo mũ (để thờ, nhưng) nhìn lên khám (thờ) vẫn thấy nghiêm trang)
2.3 Bệ thờ Cửu long chạm nổi, chạm lộng sơn son thếp vàng của BTLS là một hiện vật đẹp, thể hiện trình độ tay nghề cao. Việc tạo tác bệ thờ này hài hòa, cân đối, đặc biệt việc sắp xếp 9 con rồng uốn lượn trong không gian cùng mây trời, tạo cảnh sinh động. Theo truyền thuyết, khi Phật Thích Ca ra đời, khắp thế gian cây cối xanh tươi, hoa thơm trái chín, hạc múa công chầu. Ánh sáng trên cao chói chang rực rỡ. Xung quanh có các cung nữ múa hát, các vị thần, vị tiên vui mừng chào đón. Dựa trên câu chuyện sự ra đời của đức Phật, hình tượng Thích Ca sơ sinh được các nghệ nhân chạm khắc sinh động. Trong bệ thờ này không có tượng Thích Ca sơ sinh mà chỉ có bệ thờ chạm khắc 9 con rồng. 9 con rồng này phun nước tắm cho Phật khi Ngài mới ra đời.
2.4 Sập thờ kết hợp chạm lộng, nổi, chìm của Nguyễn Thị Tú Anh. Sập thờ được coi là chỗ “nghỉ ngơi” của ông bà Tổ tiên, những người đã khuất khi con cháu “mời” về trong dịp giỗ, lễ tết. Trên sập thờ còn có thể đặt gối thờ hoặc một vài vật dụng khác. Chiếc sập thờ này và chia thành các ô hộc. Đề tài trang trí là rồng mặt nả, lưỡng long, cây lá hóa rồng, hoa sen, hoa cúc.
Ngoài ra còn một số vật dụng khác như chân đèn, mâm bồng, ống cắm hương, bình hoa được sơn son thếp vàng, kiểu dáng đẹp mà ngày nay chúng ta còn thấy trên các bàn thờ. Hay giá đọc sớ (dùng cho người cúng) chạm nổi đề tài “Ngư Long Hí Thủy” được sơn son thếp vàng, nét chạm mềm mại, sinh động qua nét uốn lượn của rồng, cá cùng mây, nước.
3. Nhóm hiện vật dùng trong nghi lễ
Quan sát trong phòng trưng bày, chúng tôi thấy loại này không nhiều. Có một vài chiếc sau:
- Hộp đựng sắc phong dùng để đựng các bức sắc phong của nhà vua. Đặc điểm của các loại hộp đều là hình hộp chữ nhật, kích thước khác nhau. Kỹ thuật tạo tác bằng cách kết hợp chạm lộng, chạm nổi, sơn thếp. Đề tài: “tứ linh” và “long phụng”.
- Hộp đựng sớ tâu (thuộc sưu tập Vương Hồng Sển), là chiếc hộp dùng để đựng sớ của các quan hàng tỉnh để tâu lên nhà vua. Hộp hình chữ nhật, sơn son thếp vàng. Trên nắp hộp ghi bốn chữ Hán: “Tấu Sự – Nghị Giám”.
- Long đỉnh là hiện vật khá to lớn, chạm lộng, nổi, sơn son thếp vàng; đề tài Tứ linh.
- Bát bửu (cán gỗ, mũi đồng) gồm các món thể hiện nội dung Cầm, kỳ, thi, tửu - Kiếm, quạt, tù và, giỏ hoa.
4. Nhóm hiện vật dùng trong sinh hoạt
Có lẽ do nhu cầu phục vụ số đông, đồng thời là những vật dụng thiết yếu và khá phổ biến trong mỗi gia đình, vì thế, nhóm hiện vật này nhiều về số lượng, phong phú về chủng loại, kiểu dáng. Một số hiện vật tiêu biểu, chứa đựng nhiều giá trị như sau:
4.1 Các loại quả thuộc nhóm đồ gia dụng dùng để đựng vật quý, có nhiều kích thước khác nhau, dùng đựng đồ trang sức, tiền bạc hay đồ sính lễ, đám cưới, đám hỏi… chúng được trang trí khá sinh động bởi kỹ thuật, đề tài; cẩn ốc, chạm khắc hay sơn thếp. Các đồ án trang trí thể hiện ở thành ngoài hay trên nắp. Đề tài trang trí gồm: nho - sóc; chim – hoa cúc; tứ thời; tích Tam quốc; dây lá hóa rồng; bát tiên cưỡi linh thú; Ngư tiều canh mục; rồng - mây, hoa; sen – vịt; chim phượng chầu chữ Thọ… Một số quả cẩn ốc có các đề tài trang trí khác như: đề tài Kim Vân Kiều, hoa – chim, hoa cúc – bướm.
4.2 Hộp gỗ là loại có hình khối chữ nhật hay hình vuông, có nắp. Một số hộp gỗ sơn son kết hợp với đường viền là sơn then. Nhiều hộp gỗ sơn son thếp vàng những hộp trưng bày tại đây đa dạng về kiểu dáng kích thước, màu sơn (sắc độ); loại có chân đế, loại không chân đế; loại chân đế cao, chân thấp hay kiểu Lu-i. Các đề tài trang trí thường là “Long – Thọ”; “Lưỡng Long Chầu Lưỡng Nghi”; “Dây lá hóa rồng”; “tứ linh”; “Mai Điểu”; tích “Tam Quốc”…
4.3 Khay (theo từ điển tiếng Việt) là đồ dùng đựng chén, tách uống trà và vật dụng nhẹ khác, có thành thấp, đáy bằng. Tuy nhiên, nhiều loại khay bằng gỗ có mặt ở đây, chúng tôi thấy có đế (cao và thấp) và có chân kiểu Lu-i. nhiều chiếc khay chạm lọng, kết hợp chạm nổi đạt trình độ tinh xảo như khay của BTLS, Nguyễn Đình Đầu, Trần Văn Hùng, Nguyễn Hữu Triết, Nguyễn Anh Kiệt… thể hiện: Các đường chạm nhuyễn, mềm mại; Bố cục hợp lý, cân xứng; Đề tài trang trí truyền thống được thể hiện nhuần nhuyễn qua từng nét chạm; Một số đề tài thường dùng: “Dây lá hóa rồng”, “tứ linh”.
Một số khay chạm nổi và cẩn ốc nổi Trần Văn Hùng, Lê Văn Nhã, đề tài trang trí “bát bửu”, “tứ thời”. Đây là loại quý hiếm, mảnh ốc, mảnh trai nổi một phần nhô lên bề mặt gỗ. Đặc biệt, khay gỗ cẩn ốc của Nguyễn Đình Đầu vừa ghi chữ Pháp tháng năm, nơi sản xuất: “Hà Nội tháng tư năm 1887”, vừa ghi chữ Hán, nội dung chúc thọ: “Vạn thọ vô cương”. Chiếc khay này cẩn ốc nhuyễn, sắc sảo. Đề tài “Công Hầu Tước Lộc” là đề tài chính, ngoài ra còn thể hiện một số đề tài trang trí khác như “Mai Điểu”, “Hoa cúc, bướm”. Một số khay khác với nhiều hình dáng kích thước khác nhau: hình chữ nhật, hình vuông, bốn chân không đế, bốn chân có đế, chân kiểu Lu-i… Đề tài trang trí rất phong phú: “Tứ thời”, “Tam quốc”, “Bát Tiên cưỡi Kỳ Thú”, “Vinh quy bái tổ”, “Tứ Linh”, “Trúc Tước”, “Mai Thọ” hay phong cảnh non nước hữu tình như nhà cửa, lâu đài, dòng sông bến nước, con đò, cảnh sinh hoạt…
Nhìn chung, các loại khay đều được tạo tác công phu, ti mỉ đến từng chi tiết nhỏ nhất. Mỗi con vật đều thể hiện theo lối tả thực, rõ ràng từ khuôn mặt, mắt mũi, râu tóc với những tư thế khác nhau tạo nên bức tranh sống động. Đề tài trang trí đa dạng, thể hiện sự nắm bắt kỹ thuật và tay nghề điêu luyện của nghệ nhân.
4.4 Tủ gia dụng là hiện vật điển hình kết hợp nhiều nghệ thuật tạo tác đồ gỗ của thế kỷ 19. Mỗi chiếc tủ được chia thành nhiều ô hộc trang trí đăng đối với các thủ pháp chạm nổi, chạm lộng, chạm chìm hoặc cẩn ngà, cẩn ốc. Các đề tài trang trí trên tủ rất phong phú: dây lá hóa rồng, lưỡng long chầu nhật, phúc lộc thọ, chữ Hán…
Ngoài ra còn có một số loại hình khác như: Hộp đựng trà cẩn ốc, trang trí đề tài “xướng danh” (đọc tên những người đỗ đạt trong các kỳ thi của triều đình) cho chúng ta thấy hình ảnh của các quan giám khảo và các sĩ tử thời xưa; Dọc tẩu (điếu hút thuốc phiện) được cẩn ốc, cẩn ngà và nạm bạc khá tinh xảo bởi những đường nét hoa văn trang trí; Thước Lỗ Ban được chạm chìm, cẩn ốc với các mặt khác nhau dùng để đo quần áo, đồ gỗ, ruộng đất…
4.5 Có hai chiếc sập gỗ được trưng bày: Sập gỗ cẩn gỗ của Lê Văn Nhã trang trí đề tài tứ thời. Đây là một chiếc sập gỗ độc đáo, các nghệ nhân đã dùng nhiều miếng gỗ của nhiều loại gỗ có màu sắc khác nhau dùng để tạo hoa văn cẩn lên mặt gỗ tạo nên các đề tài trang trí hoa lá, chim…. Và chiếc sập gỗ cẩn ốc của Lê Quốc Lập chân kiểu Lu-i. Đề tài trang trí “Trúc hóa rồng”, “Nho – Sóc”, “Hoa – Bướm”
5. Một số nhận xét
Nghề mộc, chạm khắc, sơn son thếp vàng, cẩn ốc ở nước ta có từ lâu đời. Qua tư liệu ghi chép trong sử sách hay qua các cuộc khai quật khảo cổ học ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Hà Nam… đã phản ánh khá rõ. Tuy nhiên địa bàn xuất hiện đầu tiên hay ông Tổ nghề vẫn còn có những quan điểm chưa đồng nhất bởi một số nhà nghiên cứu. Dù vậy, nhưng nghề này xuất hiện sớm ở miền Bắc, sau đó lan dần vào miền Trung và Nam bộ. Thời Nguyễn, những nghề này phát triển mạnh ở một số tỉnh như Hà Tây, Hà Nội, Nam Hà, Huế, Sài Gòn. Năm 1868, theo yêu cầu của Pháp, triều Nguyễn đã đưa một số người giỏi nghề vào Sài Gòn dạy cẩn ốc. Năm 1877, vua Tự Đức đã cho mang một số sản phẩm cẩn ốc dự thi đấu xảo ở Paris. Đồ cẩn ốc (cẩn xà cừ) luôn được coi là sản phẩm quý hiếm. Sản phẩm làm ra chủ yếu cung cấp cho vua quan, những nhà giàu có hoặc xuất khẩu hay làm “quà ngoại giao” của nhà nước, quan lại.
Về nguyên liệu: gồm gỗ (nguyên liệu chính), sơn ta (sơn còn sống) và một số phụ liệu khác như mùn cưa, đất sét. Gỗ thường dùng là các loại gỗ tốt như: trắc, gụ, mun… thuộc loại gỗ rắn, chắc, mịn, ít bị cong vênh, mục. Nguyên liệu cho sản phẩm cẩn ốc có hai loại gỗ và vỏ trai, ốc. Vỏ ốc, trai, có màu sắc khác nhau: trắng, xanh, hồng, tím, đỏ, vàng… Tùy theo đề tài trang trí mà người thợ sẽ chọn những loại có màu sắc khác nhau cho từng chi tiết khi tạo tác. Đây là những loại nguyên liệu quý và có nhiều ở nước ta, đặc biệt là những loại có sẵn trong tự nhiên, độ tuổi cao, tạo ra những màu sắc, độ bóng tuyệt hảo. Ngày nay, những nguyên liệu này trong tự nhiên hầu như cạn kiệt, sản phẩm làm ra chủ yếu từ loại nguyên liệu nhân tạo, vì thế sắc màu, độ bóng không được như trước.
Về kỹ thuật, có thể nói, nghề chạm khắc, sơn thếp, cẩn ốc thời Nguyễn là sự tiếp nối kỹ thuật từ các thời kỳ trước. Nếu như thời kỳ đầu nhà Nguyễn, kỹ thuật quy trình sản xuất còn mang nặng hình thức thủ công, dựa và sức mạnh cơ bắp là chính, từ khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân, kỹ thuật sản xuất trong nghề đã có sự tác động mạnh mẽ của kỹ thuật theo hướng thủ công nghiệp và dần theo hướng công nghiệp ở một số khâu, bộ phận sản xuất. Sự tham gia của kỹ thuật hiện đại đã thổi một luồng không khí mới vào nghề, thúc đẩy nhanh tiến trình sản xuất, làm cho sức lao động của con người nhẹ nhàng hơn, sản phẩm được trau chuốt, kỹ càng hơn so với làm thủ công. Tuy nhiên, tuy áp dụng máy móc và trang thiết bị cho sản xuất nhưng rất nhiều kỹ thuật khác vẫn cần sự tỉ mỉ bởi bàn tay thủ công của con người mà máy móc không thể can thiệp trong kỹ thuật.
Đề tài trang trí của đồ gỗ thời kỳ này vẫn là những đề tài truyền thống như tứ linh, lưỡng long chầu nhật, các đề tài tả thực hay cách điệu về các loại động vật, thực vật, côn trùng, phong cảnh quê hương đất nươc, hay đề tài được lấy từ các tích của Trung Quốc. Đặc biệt, đề tài về động vật, phong cảnh hay con người Nam bộ được khắc họa rõ nét trong các sản phẩm có nguồn gốc từ các nhóm thợ phía Nam.
Trang trí sản phẩm theo kiểu “ô”, “hộc” là một đặc điểm thường thấy và rất độc đáo của đồ gỗ thời Nguyễn. Trên mỗi bộ phận cấu thành của các công trình kiến trúc từ lớn đến nhỏ, hay những vật dụng khác như chiếc tủ gia dụng, tủ thờ, khám thờ, sập thờ, bàn ghế… chúng ta đều thấy chia ô trang trí. Các ô này thường thể hiện theo cách đăng đối, cân bằng giữa các ô hay đối xứng nhau một cách hài hòa cả về chi tiết lẫn đề tài sử dụng.
Việc sản xuất ra các loại sản phẩm này có số lượng nhiều hơn gấp bội so với thời kỳ trước đây. Chính sự tác động mạnh mẽ của các bậc vương quyền, quan lại, quý tộc chủ yếu trong lĩnh vực xây cất, trang trí nội thất cho các công trình kiến trúc, cố đô mới, cung điện, lăng tẩm, dinh thự phục vụ cho bộ máy cai trị thực dân, phong kiến và cuộc sống giàu sang tại nhiều khu vực trong cả nước đã thúc đẩy quá trình sản xuất tăng lên mạnh mẽ. Việc xuất khẩu các sản phẩm gỗ thời kỳ này cũng tác động mạnh mẽ đến tiến trình, quy trình sản xuất, tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu, cách thức tổ chức cho phù hợp để tạo ra nhiều sản phẩm. Chính vì thế, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều công xưởng, nhà máy chế biến, sản xuất đồ gỗ phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng. Cách thức sản xuất theo hình thức tư bản cùng tồn tại bên cạnh hình thức sản xuất thủ công truyền thống.
Nghề sơn ở nước ta có từ lâu đời, đến thời Nguyễn, sản phẩm sơn thếp đã phát triển mạnh mẽ, trở thành phổ biến trong nhân dân. Tuy nhiên, đồ gỗ chạm khắc, cẩn ốc, sơn thếp chủ yếu vẫn là những đồ dùng để thờ cúng, trang trí nơi cung điện, đình chùa, dinh thự… Cũng như sản phẩm cẩn ốc, sản phẩm gỗ sơn thếp là loại đẹp, quý, đắt tiền không phải gia đình nào hoặc nơi thờ tự nào cũng có.
Có một điều còn gợn chút băn khoăn từ tên gọi của cuộc trưng bày: “Cổ vật gỗ thời Nguyễn”. Theo Luật Di sản, những di vật chỉ được coi là Cổ vật phải có tuổi từ 100 năm trở lên. Thực tế, một số hiện vật tại đây chưa đủ tuổi theo quy định, mặc dù ở một số hiện vật ghi rõ thời gian sản xuất, cung tiến… nên chăng, vừa để trưng bày giới thiệu những di sản đẹp của thời kỳ này, vừa đảm bảo quy định theo Luật Di sản, có thể đổi tên cuộc trưng bày chuyên đề này là “Di vật gỗ thời Nguyễn” hay một tiêu đề khác cho phù hợp.
Chú thích:
1. Có 12 nhà sưu tập tư nhân tham gia trưng bày gồm: Nguyễn Thị Tú Anh, Nguyễn Trọng Cơ, Nguyễn Văn Dòng, Trần Anh Dũng, Nguyễn Đình Đầu, Trần Văn Hùng, Nguyễn Anh Kiệt, Lê Quốc Lập, Lê Văn Nhã, Nguyễn Thị Lê, Nguyễn Văn Phẩm, Nguyễn Hữu Triết.
2. Số liệu báo cáo của Bảo tàng năm 2006.
3. Nội dung chữ Hán trong bài do ông Cao Tự Thanh (TP.HCM) dịch nghĩa.