DANH NHÂN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN (1228 - 1300)
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Truyền thống lịch sử hào hùng ấy đã sản sinh ra rất nhiều vị anh hùng hào kiệt làm rạng danh cho non sông gấm vóc Tiên – Rồng. Nhân kỷ niệm 69 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2013), Bảo tàng Lịch sử xin được giới thiệu về danh nhân, danh tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – một thiên tài quân sự của Việt Nam và Thế giới.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất của Việt Nam thời Trần (1225 – 1400). Ông là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu vua Trần Thái Tông, quê quán ở phủ Thiên Trường, thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định ngày nay.
Ông vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Mông – Nguyên tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm Tướng chỉ huy. Đặc biệt, trong hai lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai và thứ ba, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết Chế các đạo quân thủy bộ, vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính nên tướng sĩ hết lòng tin yêu ông. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt đã có những chiến thắng quan trọng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng. Đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam đóng góp vào sự nghiệp chính nghĩa quốc tế: Chặn đứng đà tiến quân của đế quốc Mông – Nguyên, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: “Binh thư yếu lược” và “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Trong giai đoạn giặc Mông – Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược nước ta, ông đã viết “Hịch tướng sĩ” để truyền lệnh cho các tướng, răn dạy quân sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, chuẩn bị chống giặc.
Sau khi kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ ba thành công, ông về trí sĩ ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến xin ý kiến, kế sách của ông. Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm, vua Trần Anh Tông tới nhà thăm, và hỏi ý rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Hưng Đạo Vương trả lời rằng: “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Thật vậy, tư tưởng khoan thư sức dân, dựa vào dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, toàn quân và triều đình để làm kế sách giữ nước của ông là tư tưởng vượt qua mọi thời gian, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đầy sức sống, luôn có mặt trong mọi thời đại mà hậu thế đã tôn vinh.
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của Ngài. Ngài được người dân bao đời sùng kính phong Thánh tức là Đức Thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Nhân dân không gọi trực tiếp tên của Ngài mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày Ngài mất (20 tháng 8 âm lịch hàng năm). Từ đó trong dân gian có câu “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”.
Đặc biệt, danh tướng Trần Hưng Đạo đã được các nhà bác học và quân sự thế giới vinh danh là một trong 10 vị Đại Nguyên soái quân sự của thế giới trong một phiên họp do Hoàng gia Anh chủ trì tại Luân Đôn vào năm 1984.