CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN (1287 - 1340)
Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 là một câu chuyện dài về lịch sử của các cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng và hạnh phúc cho phụ nữ trên toàn thế giới. Chính phụ nữ là những người trực tiếp làm nên ngày 8/3 lịch sử. Để có được điều này, đã có không ít máu và nước mắt đổ xuống trong quá khứ. Riêng ở Việt Nam, người phụ nữ đã có nhiều đóng góp cho lịch sử dân tộc. Nhân dịp nói về đề tài này, Bảo tàng Lịch sử xin được giới thiệu về nàng công chúa Huyền Trân thời nhà Trần.
Huyền Trân công chúa (1287-1340) là con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, Hoàng Thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi (là vua Trần Anh Tông). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái Thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ 2 (1285), hai vương triều Đại Việt và Champa đã kề vai sát cánh trên trận tuyến chống kẻ thù chung. Sự liên minh trở nên khăng khít hơn khi năm 1301, Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn xứ Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Sinhavarman III) tiếp đãi nồng hậu và ông ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay).
Khi đó Huyền Trân khoảng 14 tuổi. Năm năm sau, khi Huyền Trân đã trưởng thành, sứ bộ đã đến kinh đô xin định sính lễ. Vua Trần Anh Tông đã thực hiện lời hứa của Thượng hoàng, và công chúa Huyền Trân đã hy sinh tình riêng, vì dân tộc chấp nhận kết hôn cùng với Chế Mân.
Tháng 7 năm 1306, đoàn hải thuyền vượt biển về Nam. Đến cửa Ô Long, đoàn thuyền ghé nghỉ. Xúc động vì sự xuất giá của em gái, vua Trần Anh Tông đã cho đổi tên cửa biển này là Tư Dung hải môn, để bày tỏ nỗi niềm của mình và nhắc nhở cho đời sau mãi mãi nhớ đến sự hy sinh vì nghĩa lớn của nàng công chúa Đại Việt. Sứ bộ sau đó đã dâng sính lễ trọng hậu là châu Ô và châu Lý (vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế ngày nay) và rước công chúa vu quy về Vijaya (Bình Định ngày nay) và bà được phong làm hoàng hậu Paramecvari.
Một năm sau, khi bà vừa sinh hạ hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Sau khi chồng mất, bà được Nhập nội Hành khiển Trần Khắc Chung đưa về Đại Việt và đến tháng 8 năm 1308, Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông, công chúa xuất gia đầu Phật ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ Tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm 1311, Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã quy y cùng đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộn Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn 1340. Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là “Thần Mẫu” và lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn. Ngày bà mất về sau trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế với ý nghĩa tri ân công đức của bà vì sự phát triển của nước Đại Việt. Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua ban chiếu đền ơn công chúa “trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng”, nâng bậc tặng là “Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần”.
Việc mở hội đền Huyền Trân tại Thừa Thiên Huế được tổ chức hằng năm nhằm thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” tưởng nhớ, tôn vinh công chúa Huyền Trân và các bậc tiền nhân của dân tộc đã có công dựng nước, mở mang bờ cõi. Lễ hội thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, tăng ni phật tử, các chức sắc tôn giáo và du khách gần xa về tham dự.