Đăng kí nhận thông báo
Thống kê
Đang Online: 12
Truy cập hôm nay: 31957
Tổng số truy cập: 1912542
 
Yahoo Messenger

donhuminhkhoa
 
Đặt quảng cáo

 

SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN

2012-06-13 06:34:42

Là nơi tụ hội của các di sản Việt Nam và các nước trên thế giới, từ năm 1929 - năm Bảo tàng được khánh thành - cho đến nay, đã có hàng trăm người thuộc nhiều thành phần trong xã hội tình nguyện tặng hiện vật cho Bảo tàng,

 Trong đó có những người nổi tiếng như học giả Trần Bạch Đằng tặng vật gia bảo của gia đình là 2 thanh treo cáng của các quan thời Nguyễn bằng ngà voi, bà Nguyễn Thị Tú Anh, ông Nguyễn Văn Phẩm tặng sắc phong thần thời Nguyễn, ông Lê Hoan Hưng tặng tiền cổ thời Lê, ông Nguyễn Ngọc Nhân tặng hiện vật văn hóa Sa Huỳnh, ông Nguyễn Vĩnh Hảo (Bình Định) tặng đồ đất nung Chămpa, ông Huỳnh Phước Huệ (Phú quốc) tặng hiện vật tàu đắm tại vùng biển phía Đông đảo Phú quốc…

Bên cạnh việc tặng biếu hiện vật, nhiều sưu tập hiện vật tư nhân nổi tiếng cũng trở thành sở hữu của Bảo tàng, có thể kể đến sưu tập của dược sĩ Holbe thuộc Hải quân Pháp đến bảo tàng vào năm 1927, sưu tập của Gannay, cựu Thống đốc ngân hàng Đông Dương năm 1956, sưu tập của học giả Vương Hồng Sển năm 1996, sưu tập đèn cổ của ông Vũ Kim Lộc năm 1999, sưu tập hiện vật gốm Việt Nam, Trung Quốc của bà Alison Diệm (một nàng dâu Việt Nam tại New Zealand) năm 2003, sưu tập Nguyễn Đức Tùng năm 2006...

 Các hiện vật nói trên được Bảo tàng trân trọng tiếp nhận và tùy theo xuất xứ, niên đại, phần lớn đã được sử dụng trưng bày phục vụ khách tham quan. Riêng bộ sưu tập của Vương Hồng Sển, do được dư luận đặc biệt quan tâm nên trong những năm qua đã được trưng bày lưu động ở Hà Nội, Khánh Hòa, Cần Thơ… và hiện nay được chính thức trưng bày thành một phòng chuyên đề cố định tại Bảo tàng trong khi chờ đợi việc giải quyết địa điểm để thành lập một “Foundation Vương Hồng Sển”

  Vương Hồng Sển (1902 - 1996) là nhà sưu tập cổ vật và nghiên cứu văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là nhà sưu tập cổ vật người Việt Nam đầu tiên hiến tặng toàn bộ cổ vật và sách sưu tầm cả một đời cho nhà nước và cũng là một trong những người Việt Nam đầu tiên viết sách nghiên cứu về cổ vật với những tác phẩm như: Thú chơi cổ ngoạn, Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa, Cảnh Đức Trấn đào lục, Sổ tay của người chơi cổ ngoạn, Khảo về đồ sứ cổ men lam Huế… nhằm mục đích cung cấp kiến thức, hướng dẫn kỹ năng ban đầu cho những người thích sưu tầm đồ cổ cũng như góp phần xác định niên đại cổ vật.

 Sưu tập Vương Hồng Sển hiến tặng cho nhà nước gồm 849 cổ vật và hơn 1.000 cuốn sách, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM được giao tiếp nhận bộ sưu tập cổ vật, còn sưu tập sách chuyển về Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM. Sưu tập cổ vật của Vương Hồng Sển gồm nhiều chất liệu khác nhau: gốm sứ, đồng, gỗ, thủy tinh, ngà, sừng, đồi mồi… có xuất xứ từ nhiều quốc gia như: Việt Nam, Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước châu Âu… trong đó nhiều nhất là gốm sứ men xanh trắng Trung quốc thế kỷ XVIII-XIX xuất khẩu sang Việt Nam, với những hiện vật độc đáo do vua chúa và tầng lớp trên Việt Nam đặt hàng.       

 BTLSVN - TPHCM hiện đang trưng bày một phòng về “Sưu tập Vương Hồng Sển” với một số hiện vật tiêu biểu cho các chất liệu và các loại hình của các nước Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Nhật Bản, một số nước châu Âu trong sưu tập nhằm cho khách tham quan thấy được một phần tổng quát của bộ sưu tập này.

  Trong sưu tập Vương Hồng Sển, chủng loại gốm sứ Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam theo đặt hàng của Việt Nam (mà Vương Hồng Sển gọi là “đồ sứ men lam Huế”) được chủ nhân ưa thích nhất gồm những loại sau:

 Gốm Trung Quốc sản xuất theo Việt Nam đặt hàng thế kỷ XVIII

 Vào thế kỷ XVII - XVIII, nhà cầm quyền Đàng Ngoài và Đàng Trong cho rằng gốm sứ Trung Quốc sản xuất có chất lượng tốt nên đã đặt các lò gốm tại trấn Cảnh Đức tỉnh Giang Tây sản xuất các loại đồ dùng trong hoàng cung, phủ chúa. Đó là khởi đầu cho một dòng gốm Trung Quốc sản xuất theo Việt Nam đặt hàng và cũng là khởi đầu cho việc gốm Trung Quốc tràn vào Việt Nam góp phần làm suy yếu nghề gốm Việt Nam lúc bấy giờ. Gốm sứ Trung Quốc sản xuất theo yêu cầu của chúa Trịnh - chúa Nguyễn được biết đến là những sản phẩm đồ đựng, đồ trang trí cao cấp men xanh trắng vẽ phong cảnh, đồ án, tích truyện, thơ chữ Hán, chữ Nôm… hàm chứa những ý tưởng, ẩn dụ tốt đẹp.

 - Loại hàng Trung Quốc sản xuất cho chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, hoa văn chủ yếu là các đồ án rồng, lân, phượng những linh vật chỉ dùng cho vua chúa, hoàng tử, hoàng hậu…ở phần trôn loại hiện vật này được ghi các loại hiệu đề đặc biệt bằng chữ Hán như: Nội phủ thị Đông, 西 Nội phủ thị Đoài, Nội phủ thị Trung, Nội phủ thị Bắc, Nội phủ thị Nam, Nội phủ thị Hữu, Khánh Xuân, Khánh Xuân thị Tả.

Sưu tập Vương Hồng Sển có tất cả 20 sản phẩm Nội phủ, Khánh Xuân, có thể kể đến là:

 Tô ? “Nội Phủ Thị Hữu” – TK18

Tô đã bị rạn vài chỗ. Thành trong và thành ngoài của tô vẽ rồng, phụng chầu mặt trời. Rồng có 5 móng đang bay, ẩn hiện trong những lớp mây. Trôn ghi chữ Hán (Nội Phủ Thị Hữu)

Vì kích thước khá lớn nên Vương Hồng Sển gọi là “quán tẩy” tức “chậu rửa mặt” [62, tr.133]. Có thể đây là một loại mâm đựng trầu cau hay đựng lễ vật (?)

 Đĩa “Khánh Xuân Thị Tả”

 Lòng đĩa vẽ một con rồng 5 móng với những đám mây bao quanh chữ THỌ tạo thành chủ đề: Độc long khánh thọ hay Long Vân Khánh Thọ. Thành ngoài đĩa vẽ văn sóng nước, một con long mã lớn trên đầu có sừng, theo sau là hai con long mã khác nhỏ hơn.

Sản phẩm Nội Phủ Khánh Xuân TK18 là loại hàng cao cấp đương thời, có lẽ chỉ được đặt hàng vài lần với một số lượng ít và với một hợp đồng chặt chẽ như là sản phẩm độc quyền, các lò gốm ở Trung Quốc đã không sản xuất thêm để bán ra ngoài, vì vậy ngay ở Trung quốc cũng rất ít người biết đến sự hiện diện của chúng.

 Có tác giả cho rằng việc đặt tên gọi với các từ chỉ phương hướng như Nam, Bắc, Đông, Đoài (nghĩa là phương Tây, gọi phương Tây là Đoài nhằm tránh húy Tây vương Trịnh Tạc), Tả, Hữu, có lẽ chủ yếu để mô tả đây là đồ dùng trong khu vực thuộc các hướng trong phủ chúa. Hoặc cũng có thể như Vương Hồng Sển nhận định là vì do chúa Trịnh không muốn ghi niên hiệu vua Lê trên đồ gốm sứ mà Phủ Chúa sở hữu nên đã dùng các hiệu đề như trên để chứng tỏ sự độc lập và quyền uy của Phủ Chúa.

 Tuy nhiên, cách giải thích về phương hướng trong tên gọi của các loại cổ vật này (vì sao gọi Nội Phủ Thị Nam, vì sao gọi Khánh Xuân Thị Tả…) vẫn chưa được các nhà nghiên cứu hoàn toàn nhất trí.

- Loại hàng do chúa Nguyễn đặt : Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong cũng đặt hàng gốm sứ men xanh trắng của Trung Quốc nhưng với mẫu mã hoàn toàn khác. Đồ sứ ghi thơ Nôm là một đặc điểm của  gốm sứ đặt hàng thời chúa Nguyễn, tuy nhiên cũng có những sản phẩm chép bằng chữ Hán chép các bài thơ do Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) - vị chúa thứ 7 thời tiền Nguyễn còn có biệt hiệu “Thiên Túng đạo nhân”- sáng tác như: “Thiên Mụ hiểu chung” (Chuông sớm chùa Thiên Mụ), “Tam Thai thính triều” (Núi Tam Thai nghe sóng triều), “Thuận Hóa vãn thị” (Chợ chiều Thuận Hóa), “Ải Lĩnh xuân vân” (Mây mùa Xuân đèo Hải Vân)…

 Bát có bài thơ “Ải lĩnh xuân vân”: Bát được vẽ cảnh núi non hiểm trở- có tác giả cho rằng đây chính là cảnh Đèo Hải Vân- và bài thơ thất ngôn bát cú (8 câu, mỗi câu 7 chữ) như sau:

 Chữ Hán:

Âm Hán Việt:

Việt Nam xung yếu thử sơn diên

Tuyệt lĩnh hoàn như thục đạo thiên

Đản kiến vân hoành tam tuấn lĩnh

Bất tri nhân tại kỷ tùng thiên

Lãnh thiêm thu phát phi đồng tuyết

Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền

Duy nguyện hải phong xuy tác vũ

Chính nghi thiên lý nhuận tang điền

Nghĩa là:

Xung yếu Việt Nam ngọn núi này

Hiểm nghèo đường Thục khác chi đây

Chỉ coi mây phủ ba tầng núi

Không biết ngoài kia mấy lớp mây.

Lạnh bám tóc râu không tuyết dính

Ướt đầm quần áo chẳng khe dây

Chỉ mong gió biển mang mưa tới

Ngàn dặm nương dâu tưới ướt đầy

(Trần Đình Sơn dịch)

Gốm Trung Quốc sản xuất theo Việt Nam đặt hàng thế kỷ XIX:

Sang TK XIX, việc đặt sản phẩm gốm tại Trung Quốc được tiếp tục ngày càng nhiều, lúc này không chỉ có vua Nguyễn đặt hàng mà tầng lớp thượng lưu nhiều tiền của cũng có thể đặt hàng. Các sản phẩm lúc này được ghi ký hiệu theo nhiều cách: Sản phẩm do vua Nguyễn đặt làm thường được ký hiệu bằng chữ Hán: năm âm lịch, thí dụ như “Giáp Tý”, “Canh Dần”…, hoặc niên hiệu vua Nguyễn như “Thiệu Trị niên chế”, hoặc niên hiệu kèm can chi như “Tự Đức Tân Mùi” hoặc chữ “Nhật”… về cách ghi ký hiệu năm âm lịch có lẽ là để ghi dấu năm đặt hàng. Việc dùng chữ Nhật làm ký hiệu được giải thích là vì tên của các vua Nguyễn đều có bộ Nhật (mặt trời) nên dùng ký hiệu này để biểu thị, cứ thấy vật dụng có chữ Nhật thì biết rằng đó là những vật thuộc về hoàng đế.

 Hoa văn trên các sản phẩm này là các loại phong cảnh, tích truyện Trung Quốc như Bá Nha - Tử Kỳ, Trương Lương-Hoàng Thạch Công… và Việt Nam như Gia Long tẩu quốc, các đồ án như Mai hạc, rồng, phụng, tứ linh, hoa lá…

Bát “Tự Đức Tân Mùi” (1871)

Trong lòng vẽ hai nhánh cây tùng và một cặp chim hạc. Ngoài vẽ cây tùng, con lộc và dơi tượng trưng Phúc – Lộc – Thọ

SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn
SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
Xem Ảnh lớn